Khu du lịch Ghềnh Ráng Quy Nhơn

Những điểm độc đáo chỉ có tại khu du lịch Ghềnh Ráng Quy Nhơn

Khu du lịch Ghềnh Ráng Quy Nhơn là một trong những địa điểm được rất nhiều du khách lựa chọn tham quan khi đến với thành phố biển xinh đẹp Quy Nhơn. Nơi đây không chỉ có phong cảnh nên thơ hữu tình mà còn là nơi an nghỉ của thi sĩ đa tài mệnh bạc Hàn Mặc Tử. Hãy cùng nhau khám phá về khu du lịch nổi tiếng này trong bài viết dưới đây.

I. Đôi nét về khu du lịch Ghềnh Ráng Quy Nhơn

Thành phố biển Quy Nhơn từ lâu đã được mệnh danh là một trong những thành phố đẹp và đáng sống nhất Việt Nam. Quy Nhơn có rất nhiều các bãi biển đẹp, khu di tích lịch sử hấp dẫn khách tham quan. Trong đó không thể không kể đến khu du lịch Gềnh Ráng Quy Nhơn.

Cảnh đẹp tại Khu du lịch Ghềnh Ráng tại Quy Nhơn

1. Cách di chuyển đến khu du lịch Ghềnh Ráng ở Quy Nhơn

Khu du lịch Ghềnh Ráng Quy Nhơn nằm cách trung tâm thành phố biển Quy Nhơn khoảng 3km. Du khách tới đây rất tiện đường, chỉ cần thuê một chiếc xe đạp hoặc xe máy, chạy theo hướng Đông, khi nào thấy biển chỉ dẫn “Ghềnh Ráng” là đã tới nơi. Đường đi dọc bãi biển có nhiều cảnh đẹp, ít xe cộ đi lại nên đừng bỏ lỡ dịp tranh thủ chụp vài bức ảnh trên đường tới Ghềnh Ráng.

2. Cảnh đẹp tại Ghềnh Ráng Quy Nhơn

Du lịch Ghềnh Ráng Quy Nhơn là trải nghiệm thú vị với bất kì du khách nào

Từ lâu, người dân thành phố biển Quy Nhơn vẫn luôn tự hào vì được thiên nhiên ưu ái ban tặng Ghềnh Ráng – chốn thắng cảnh đẹp như một tác phẩm nghệ thuật. Toàn bộ khu du lịch này thuộc về quần thể sơn thạch trong dãy Xuân Sơn và có diện tích khoảng 35ha . Xa xưa, nơi đây thường được các vị vua và hoàng hậu lựa chọn làm nơi nghỉ dưỡng, lánh xa chốn bụi trần hư danh.

Điểm thu hút và hấp dẫn nhất của khu du lịch Ghềnh Ráng Quy Nhơn đó chính là sự kết hợp vô cùng hài hòa giữa biển cả rộng lớn bao la với núi non hùng vĩ trùng điệp, lại thêm khí hậu quanh năm mát mẻ trong lành. Du khách tới đây sẽ được hòa mình vào dòng nước biển trong vắt, được chạy chơi trên những bãi cát dài phẳng lặng, lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rào. Đặc biệt từ Ghềnh Ráng có thể ngắm toàn bộ thành phố Quy Nhơn hiền hòa đầy sức sống.

II. Những trải nghiệm tuyệt vời tại Ghềnh Ráng Quy Nhơn

1. Say lòng trước cảnh đẹp của bãi Tiên Sa

Bãi Tiên Sa là bãi biển đẹp nhất nằm trong khu du lịch Ghềnh Ráng Quy Nhơn. Nó được ví như một Nha Trang thu nhỏ với những bãi cát trắng xóa, hàng cây thông xanh rì rào, gió biển thổi mát rượi và những mỏm đá trăm năm vẫn kiên cường để sóng vỗ. Du khách đến đây tựa như một vị khách tiên tìm về nơi an nhàn hưởng lạc tránh xa những xô bồ ồn ào của đời thường bon chen.

2. Ngắm bình minh và hoàng hôn trên biển

Những người ưa lãng mạn, muốn được chiêm ngưỡng thời khắc đẹp nhất của tự nhiên chắc chắn phải đến ngắm bình minh và hoàng hôn trên biển. Mỗi thời điểm, khu du lịch Ghềnh Ráng Quy Nhơn lại có một vẻ đẹp khác nhau. Bình minh sáng rọi bừng tỉnh, hoàng hôn đỏ rực nồng cháy và ban đêm lại tĩnh lặng như tờ. Du khách chắc chắn sẽ trầm trồ thán phục trước phác họa tinh tế đầy màu sắc, biểu cảm mà thiên nhiên đã mang đến cho Ghềnh Ráng. Nếu du khách muốn ngắm bình minh và hoàng hôn trên biển cùng bạn bè và người thân thì cũng có thể đến khu du lịch Trung Lương Quy Nhơn, ở đó có một khu dành riêng để cắm trại, tổ chức vui chơi qua đêm.

3. Lắng hồn về thăm Hàn Mặc Tử

Thăm mộ Hàn Mặc Tử khi đến Ghềnh Ráng Quy Nhơn

Đến thăm khu du lịch Ghềnh Ráng Quy Nhơn, du khách cũng đừng quên ghé thăm mộ Hàn Mặc Tử, thắp lên đó một nén hương tỏ lòng thành kính xót xa trước con người thi nhân tài hoa mà bạc mệnh. Ghềnh Ráng Quy Nhơn chính là cái nôi ra đời của những vần thơ cuồng dại, điên loạn, khao khát yêu và được yêu vào những năm cuối đời phải chiến đấu với bệnh tật của nhà thơ. Không chỉ vậy, người yêu thư pháp còn có cơ hội chiêm ngưỡng bút tích của nghệ nhân Dzũ Kha thể hiện những bài thơ Hàn Mặc Tử để lại trên các phiến gỗ phiến đá vô cùng xuất sắc.

4.Bút lửa Dzũ Kha

Người 30 năm sống bên mộ Hàn Mạc Tử

(ANTĐ) – Vừa đặt bước chân đầu tiên dưới chân dốc Gềnh Ráng, Quy Nhơn, Bình Định, tôi đã thấy mãn nguyện. Thế là mong mỏi hơn 30 năm qua được đến thăm nơi thi sĩ tài danh Hàn Mạc Tử an giấc ngàn thu đã trở thành hiện thực. Tôi bước thoăn thoắt trên cả trăm bậc đá, giữa hai hàng cây vi vu gió thổi. Đây rồi, mộ Hàn Mạc Tử đặt trên đồi Thi nhân xanh mát cây cối, xa xa là biển xanh rì rào sóng vỗ……

An nghỉ nơi đây, hẳn nhà thơ Hàn Mạc Tử nơi chín suối cũng hài lòng, mãn nguyện trước cảnh non nước hữu tình, đẹp như những bài thơ tình mà ông đã để lại cho đời. Và còn một điều to lớn nữa làm cho linh hồn nhà thơ cũng được mãn nguyện đó là ngày ngày đều có du khách thập phương ngưỡng mộ tài thơ của ông tìm đến đây để thắp lên mộ ông nén nhang thơm, để tha thẩn trong khu nhà lưu niệm Hàn Mạc Tử, xem ảnh, bút tích, đọc thơ ông.

Tôi thắp ba nén nhang lên mộ thi sĩ Hàn Mạc Tử, chắp tay lạy ông ba lạy rồi lùi ra ngắm nhìn ngôi mộ. Một ngôi mộ khiêm nhường nhưng vẫn toát lên được vẻ đẹp tao nhã, mộ được kiến tạo theo khối hình chữ nhật có bậc tam cấp, phía trước có cây thánh giá, hai bên mộ là hai tượng voi nằm phủ phục, đầu mộ gối lên tượng Đức mẹ Maria đang dang rộng vòng tay nhân ái ôm lấy thể xác và linh hồn thi sĩ.

Bia mộ tạc ghi: “Đây an nghỉ trong tay Mẹ Maria – Hàn Mạc Tử – tức Phêrô Phanxicô – Nguyễn Trọng Trí/ Thứ nam cố Nguyễn Văn Toản và Nguyễn Thị Duy/ Sanh: 22-9-1912 Lê Mỹ (Quảng Bình)/ Tử: 11-11-1940 Quy Hòa (Bình Định)/ Cải táng lập mộ 13-2-1959 do chị Nguyễn Thị Như Ngãi, Nguyễn Thị Như Lễ, em Nguyễn Bá Tín, Nguyễn Bá Hiếu, bạn Quách Tấn…”.

Tôi đi ra ngoài, bắt gặp một đám đông đang xúm xít trước ngôi lều cỏ, liền rảo bước lại gần. Trong lều là một nhân vật kỳ dị, một con người ngưỡng mộ thơ Hàn Mạc Tử đến độ si mê. Nhân vật đó là Dzũ Kha, tên khai sinh là Trương Vũ Kha, quê Cát Lâm, Phù Cát, Bình Định.Rời khu mộ Hàn Mạc Tử, tôi đến Nhà lưu niệm, ngắm xem những vật dụng, bức ảnh, bút tích của Hàn Mạc Tử từ lúc sinh thời cho đến khi ông qua đời vào ngày 11-11-1940. Đây là ảnh nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đến thăm, kia là ảnh Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm, kia nữa là ảnh nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm v.v…

Sau khi học xong Mỹ thuật Sài Gòn, Dzũ Kha về Quy Nhơn mở phòng tranh tại Quy Hòa – nơi Hàn Mạc Tử đã sinh sống và điều trị bệnh phong rồi sau đó Dzũ Kha dựng một chiếc lều nhỏ gọi là lều thơ sau lưng mộ Hàn Mạc Tử; cho đến nay, anh có 47 năm tuổi đời nhưng đã có 26 năm sống bên mộ Hàn Mạc Tử.

Hàng ngày, nắng cũng như mưa, khi mặt trời vừa ló bóng, Dzũ Kha đã lỉnh kỉnh đồ đạc từ nhà lên lều thơ để bắt đầu một ngày mới; công việc đầu tiên là thắp nén nhang thơm lên mộ Hàn Mạc Tử, sau đó bắt tay vào công việc tạc thơ, giới thiệu về thân thế, sự nghiệp Hàn Mạc Tử cho du khách thập phương, vẽ tranh, làm thơ cho đến khi mặt trời đổ bóng, anh lại xuống núi về với vợ con.

Mỗi khi bắt gặp được khách tâm giao, bất kể già hay trẻ, nam hay nữ muốn trò chuyện, bàn luận về thơ, về đời Hàn Mạc Tử là Dzũ Kha có thể dốc bầu tâm sự thâu đêm, suốt sáng; lúc ấy người nghe có cảm tưởng như Dzũ Kha là cuốn từ điển sống về Hàn Mạc Tử. Hàng năm, vào những ngày lễ trọng của Hàn Mạc Tử như sinh nhật 22-9; ngày giỗ 11-11, Dzũ Kha đều tổ chức hết sức chu đáo và thành kính như thể tấm lòng của kẻ sĩ với sư phụ của mình!

Từ ngoài nhìn vào cái lều thơ con con, trông Dzũ Kha như một ẩn sĩ, người cao gầy, khuôn mặt xương xương, mái tóc dài xõa vai. Anh ngồi bên chiếc bàn nhỏ, đang chăm chú tạc một bài thơ của Hàn Mạc Tử lên một tấm gỗ mỏng bằng một cây bút lửa.

Cây bút lửa, thân làm bằng một đoạn trúc, ngòi bút là một dây kim loại được nối dây điện với một chiếc ắcquy 5 vôn có công tắc ngắt mở, mỗi khi bật công tắc, chiếc bút lửa lại khạc ra một ngọn lửa bé xíu, anh lia lia cây bút trên tấm gỗ, ngọn lửa lia tới đâu để lại sau đó những hồn thơ sống động. Tạc xong bài thơ “Uống trăng” của Hàn Mạc Tử, Dzũ Kha trân trọng đưa cho du khách – một người đàn bà đẹp, quý phái hâm mộ thơ Hàn Mạc Tử và đã đặt Dzũ Kha tạc bài thơ này.

Đợi cho người khách cuối cùng trong toán khách ra khỏi lều thơ của Dzũ Kha, tôi mới bước vào ngắm nghía lều thơ, một ban thờ có chân dung thi sĩ Hàn Mạc Tử đặt chính giữa, khói hương đang tỏa ra thơm ngát; trên vách treo chân dung những nàng thơ đã đi qua cuộc đời Hàn Mạc Tử, những bài thơ của thi sĩ Hàn được Dzũ Kha tạc trên gỗ thông, trên đá, những di vật quý giá về Hàn Mạc Tử, những bức tranh thủy mạc do Dzũ Kha vẽ…

Tôi bất chợt hỏi chủ nhân của chiếc lều thơ. Nở một nụ cười thân thiện, Dzũ Kha đáp:– Có lẽ anh là người hâm hộ thơ Hàn Mạc Tử nhất trên thế gian này?

– Không, tôi chỉ dám nhận mình là người yêu thơ Hàn Mạc Tử như hàng triệu người khác và nguyện cả đời giữ lửa, truyền lửa thơ Hàn Mạc Tử cho đời!

Và như để minh chứng cho lời nói của mình, Dzũ Kha đọc một đoạn trong bài thơ “Nguyện làm người giữ lửa thơ Hàn” do anh sáng tác năm ngoái, nhân kỷ niệm tròn 30 năm anh gắn bó bên mộ thi sĩ Hàn Mạc Tử:

Tôi nguyện giữ lửa thơ Hàn

Thắp “Mùa Xuân Chín” nắng tràn trời xanh

Hai lăm năm ở bên anh

Câu thơ qua lửa mong manh kiếp người.

Chẳng màng danh vọng với đời

Mộ Hàn hương tỏa thay lời tin yêu.

Đọc xong, anh im lặng, tay mân mê lên một mảnh gỗ thông khắc thơ Hàn Mạc Tử. Tôi nói với Dzũ Kha, tôi đã từng đọc thơ của anh in trên báo, in trong sách, thơ anh chịu ảnh hưởng của thơ Hàn Mạc Tử, phải chăng anh là học trò thơ của Hàn Mạc Tử?

Anh đáp, phải! Tôi lại nói với anh, ngày xưa khi người thầy chết đi thì học trò để tang thầy và cũng có học trò dựng lều cỏ bên mộ thầy để hương khói cho thầy nhưng cũng chỉ đoạn tang ba năm thôi thì bỏ lều mà đi.

Tôi nói với Dzũ Kha, anh đã 30 năm sống bên mộ Hàn Mạc Tử, trung bình mỗi ngày anh tạc 50 bài thơ của thi sĩ để bán và tặng cho du khách, mỗi tháng là 1.500 bài, 26 năm là 468.000 bài và sẽ tiếp tục tạc thêm hàng vạn, hàng chục vạn lượt bài thơ Hàn Mạc Tử nữa cho đến khi anh từ giã cõi đời này thì quả là khác người.

Hàn Mạc Tử khi sống, thơ ông là một tượng đài trong làng thơ Việt Nam; khi ông chết đi, mộ ông cũng trở thành bức tượng tạc vào núi non, biển cả Quy Nhơn.

Rời lều thơ, Dzũ Kha đưa tôi ra vườn thơ ngay sát bên, anh khoe đây là công trình mới nhất mà anh khánh thành vào ngày 15-3-2007. Tất nhiên để có vườn thơ này, ngoài công sức và tâm huyết, Dzũ Kha cũng phải bỏ nhiều triệu đồng dành dụm bằng mồ hôi của mình.

Vườn thơ nho nhỏ được trồng bằng những núi đá nhỏ, cây nhỏ trên đó có treo những chùm thơ được Dzũ Kha tạc, viết một cách điệu nghệ trên đá, gỗ, xi măng; đây là câu thơ: “Trăng nằm sõng soài trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi”, còn kia là câu thơ: “Trăm năm vẫn một lòng yêu/ Và còn yêu mãi rất nhiều em ơi!” – toàn là những câu thơ tình bất hủ của Hàn Mạc Tử.

Trong đám du khách đang nha nhẩn thưởng ngoạn thơ Hàn Mạc Tử trong vườn thơ, có cô gái duyên dáng với đôi mắt to đen láy. Cô là sinh viên ở TP.HCM, nhân ra thăm người bạn ở Quy Nhơn tìm đến đồi Thi nhân để thắp hương cho Hàn Mạc Tử.

Cô bảo cô yêu thơ Hàn Mạc Tử từ hồi còn học cấp 2, mặc dù tối nay cô phải lên tàu về Sài Gòn rồi nhưng nhất quyết đến thắp hương bằng được lên mộ Hàn Mạc Tử, nếu không thì chuyến về Quy Nhơn của cô sẽ chẳng có ý nghĩa gì.

Tôi mỉm cười, đâu chỉ có cô mà tất cả những du khách đến Quy Nhơn, ai mà chả mong muốn đến cháy bỏng được đến thăm viếng nơi an giấc ngàn thu của thi sĩ tài danh, bạc mệnh này.

Chiều đã xế bóng, mặc dù còn nhiều điều muốn hàn huyên với Dzũ Kha nhưng đành phải nói lời ra về mà không biết ngày hẹn lại vì đường sá xa xôi, vì cuộc sống mưu sinh lúc nào cũng níu kéo. Chủ – khách chia tay trong bịn rịn.

Tôi xuống đồi, như chú tiều phu bước từng bước một đi xuống, được một đoạn bước chân bỗng chùng chừng, liền ngoái cổ nhìn lại. Trong ráng chiều rực rỡ, bên mộ thi sĩ Hàn Mạc Tử vẫn còn một bóng giai nhân đang khấn vái trong làn hương khói bảng lảng. Phải chăng người đẹp không muốn về?

Ký sự của Vũ Đảm

Đưa tay xem số phận mình
Đường chí cụt ngủn, đường tình chẻ ba
Phận là phận, ta là ta
Đường nhân gian cứ tà tà ta đi.

Sợi dài, dài những trầm (k)Kha/

Trầm (k)Kha đến nỗi DZũ (rũ) ra… với đời

Anh đã được nhiều ký giả đụng bút ca ngợi. Cái đó miễn bàn. Nhưng sao không thấy ai phê và chê anh nhỉ? Tôi thì mến mộ chưa đến chốn, gặp gỡ chưa đến nơi, lấy chút riêng tư cỏn con nơi góc nghĩ mà phán lên ít chữ, dám mong vẽ lại chân dung anh ở một bình diện khác, cứ tạm cho là nói xấu sau lưng – một con người!

Họa ngôn:

Tôi nói là họa ngôn khi thực hiện phác họa một chân dung là vì bản thân tôi không phải là họa sĩ. Nhưng chắc gì là họa sĩ đã tạc trúng và đúng chân dung một con người. Mà có na ná, giống giống đi chăng nữa thì đó cũng chỉ là phiên bản, treo lên tường rồi thì cái “bản mặt” (được vẽ) cũng chỉ ngang tầm với bọn thạch sùng, thậm chí thấp hơn nếu con thạch sùng đó nó dán bụng lên trần nhà…

Tôi chọn cách vẽ chân dung anh bằng ngôn ngữ, tất nhiên là trên giấy (viết hay đánh máy cũng được) ít nhiều nó nó còn tiện cho anh bỏ túi (túi gì cũng được), nhỡ cần nhen bếp nướng khoai… cũng được.

Từ năm 1867, hai nhà tiên phong trong lĩnh vực mỹ phẩm là ông Thiellay (người Anh) và ông Leon Hugo (người Pháp) đã cung cấp cho các quý bà, quý cô của xã hội thượng lưu Paris một dung dịch được gọi là “nước vàng từ suối nguồn tươi trẻ”. Thực chất, đó là dung dịch oxy già dùng để nhuộm ra một mái tóc vàng. Trước đó, người Ai Cập cổ đại thường dùng lông cừu, bờm ngựa hoặc sợi tước ra từ vỏ cây để tạo nên mái tóc vàng. Người La Mã thì lại rắc bột vàng đắt tiền lên tóc, để có được một mái tóc vàng. Cho đến thời đại ngày nay, việc dùng oxy già đã trở thành một thói quen cực kỳ phổ thông trong giới phụ nữ và cũng bắt đầu tăng dần ở nam giới. Tại Đức có đến 90% phụ nữ có mái tóc vàng là do dùng thứ hoá chất này trợ giúp. Ở Việt Nam, tôi chả dám đụng đến ông thánh bà tướng nào có tóc dài, hỏi họ xem tóc dài có ý nghĩa gì mà chỉ ngầm đoán linh tinh rằng: Người ta thế!

Còn với DZũ Kha? Ngoài những sợi vàng, còn có cả sợi bạc, loằng ngoằng, bết nếp là răng? Tôi mạo muội, thậm chí hồ đồ suy diễn: Đó là những sợi trầm kha!

Những sợi rũ ra với đời ấy nó vận với số mệnh anh, ứng với tên đệm và hơn nữa là cày nổi cả một đoạn đời ngoằn nghoèo gò đam mê vào nghệ thuật. Những sợi zũ ấy có vàng, có đen, có trắng và chắc hẳn có cả mùi nữa. Tôi phàm ngôn vậy bởi một suy diễn là: DZũ Kha là lão nông làm nghệ thuật, nghệ thuật đích thực (chứ không phải thật sự). Cái vàng của tóc có thể là gió sương nó nhuốm, màu đen là chút xuân tàn còn sót lại, cái bạc lơ thơ là bởi sức đã vơi mòn… Còn cái mùi, sự rối tinh, loằng ngoằng đan xen những sợi màu khác từ chân tóc đến ngọn tóc?.

Cả cười sau cõi vô thường/Người vui thế ấy, nỗi buồn lấp đâu

DZũ Kha là một nghệ sĩ bút lửa tạc thơ Hàn Mặc Tử, chỉ thơ Hàn Mặc Tử (chứ không phải như một vài tay nhà báo ngồi salon ngộ bút bảo là viết thơ Hàn Quốc đâu nhé – PV) từ mấy chục năm qua. Tôi đồ rằng việc anh mê thơ Hàn đã làm anh Hạnh phúc nhưng cũng vì đam mê ấy mà anh có được những sợi nghệ thuật lấp lánh phủ kín một khối óc chỉ vì tình yêu đó mà vêu vao thân xác. Những sợi lấp lánh tôi vẽ rối lên cho mái tóc DZũ Kha thể hiện qua những nhát thanh, nhát đậm, thậm chí là nét tàn, phẩy lên, nhấn xuống trên mỗi câu, mỗi chữ mà anh đốt cháy. Và, cái nơi để đựng lại, giữ lại những sợi khói (đừng nghĩ là khói thuốc) thăng lên từ những câu thơ bị đốt cháy ấy ngấm vào những sợi lấp lánh kia để rồi vĩnh viễn âm ỉ một thứ mùi nghệ thuật, bảng lảng thứ chất thơm tinh hoa, mẫn tiệp đến lạ lùng!

Người đời hay nói: Cái rằng cái tóc là góc con người! Chả phải. Vì rằng nếu nói thế thì góc con người bao nhiêu độ? Vớ vẩn là ở chỗ đó! Nhưng mà với DZũ Kha thì có độ thật. Tôi nhìn thấy cái độ của anh theo một nghĩa khác, theo kiểu nhìn hàm hồ riêng, xét ở “góc đời” có mái tóc làm chứng. Ấy là DZũ Kha có độ lỳ. Tôi không thể tính được trên khuôn mặt anh ám bao nhiêu khói nghệ thuật, tóc anh ngấm bao nhiêu khói, tỏa ra bao nhiêu mùi nghệ thuật nhưng chắc hẳn mức độ đủ làm anh tự hào, để tiếp tục đam mê đến tưởng như không chỉ mái tóc mà cả thân thể đã lỳ ra, DZũ ra vì, cho nghệ thuật….

Giải mã tên anh, tôi mạo muội thế. Mọi người hãy cảm giùm tôi độ này!

“Thầy rùi” chẳng thủng Đạo đâu mà rùi

Cái Đạo ở đời trong việc giao tế thông thường hay trong công việc ngày nay xuống cấp nghiêm trọng!

Tôi nom thấy anh quắp chèo chân, búng tàn thuốc, phà khói vào thinh không nơi đang diễn ra cái ngày tôn vinh một vốn quý trong kho tàng Văn hóa dân tộc – Ngày thơ Lục Bát Việt Nam (6.8 Kỷ Sửu). Thế rồi, tôi lại tum húm mắt khi nom thấy anh phệt mông bên một cụ đồ nho, mặt vêu lên nén thảm tựa như muốn tăng điện áp cho đỏ bút, cày vài câu ngạo đời lên cả một bức trướng (chứ không phải ván ép) nhưng… điện mất. Định bụng tìm gặp Giám đốc hỏi vì sao anh “thiếu lửa”, nhưng thôi. Diễn biến chốn trần gian đến tiên đôi khi còn phát hoảng, phát chán ngán nữa là… Mà chả nhẽ con người ta không có quyền được buồn, chán về một việc, một hiện tượng nào đó đập vào trí não…!?

Biết rồi, DZũ Kha dừng bút lửa “rùi chữ” (là những câu thơ, danh ngôn hay phong cảnh). Người ta cứ ca ngợi đôi tay anh khéo léo với tài hoa. Nhưng tôi thì nghĩ khác. Đôi tay chỉ là công cụ thực thi công việc mà bộ não “sai khiến”. Nhưng mà với DZũ Kha như vậy là chưa đủ, chưa chính xác cho lắm. Ngay chuyện bảo anh viết chữ bàng bút lửa tôi cũng không mấy đồng tình. Tôi cho hành động tạo nên những câu chữ cháy đen thể hiện hẳn hoi đó là nghệ thuật không không phải do viết mà là rùi chữ.

Và, khi DZũ Kha rùi chữ tôi cho là anh rùi bằng mắt, kết hợp với tư duy nghệ thuật của khối óc truyền xuống tay thăng hoa lên ngòi bút được nung đỏ!

Một tác phẩm Thư pháp bằng Bút lửa của DZũ Kha

Đôi mắt thảng hiền của “thầy rùi DZũ Kha” (mạo muội gọi anh bằng biệt danh mới toanh ấy), có sức ám ảnh ghê gớm. Tôi đồ rằng lẩn khuất sâu trong ánh mắt ấy không chỉ có nghệ thuật, tình yêu mà còn lê thê những nỗi niềm trần thế. Anh mắt không kéo lõm những hoài nghi về góc đời nghệ thuật nhưng đã mệt mỏi trước sự đời vạn biến. Ánh mắt thể hiện sự không bằng lòng, mệt mỏi và chán chường đôi khi là cùng cực nhưng buộc phải chấm nhận. Tôi cũng đồ rằng nhưng người hay ám ảnh bởi những suy nghĩ về cái vạn biến của cuộc đời vẫn thường hay dằn vặt mình bằng cách vay, mượn, xác tín lên những cái xung quanh mình như là một liệu pháp tâm lý giải tỏa nỗi niềm, chấn an tâm tưởng. DZũ Kha “xác nhận”: Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến nhưng là đã cho thấy cái bất an thảng hoặc trong cõi riêng đời mình rồi vậy! Và anh tự động viên: Nhẫn một chút gió yên sóng lặng/Lùi một bước biển rộng trời cao. Thú thực, có thể câu thứ nhất DZũ Kha rùi nên đó rất đúng nhưng mà chỉ một bước lùi thôi cũng có thể xuống vực khi nào chẳng biết. DZũ Kha ạ! Biển, Trời vốn dĩ từ đời nảo đời nào đã rộng và cao rồi. Đừng than hay tự động viên mình nữa.

Thầy đã mang tài thực đến chốn nhọ nhem lòng người để rồi đạo không được nhận, đấu gạo chẳng có để ninh, thì khăn gói tựa tiều phu hiên ngang mà rẽ núi, băng rừng về chốn sơn lâm đất võ của thầy mà rùi lên trời cao, núi dựng nỗi lòng này cho tỏ âm dương. Tôi chúc thầy thượng lộ bình an! Khi đã lên cao rồi cũng đừng ngó xuống. Mà có ngó xuống thầy cũng chẳng nhìn tỏ gì đâu. Thế nên thầy cũng suy giúp là nếu như tiên, phật chỉ lửng lơ ở độ cao 1000m trên trời cũng như thầy thôi, chẳng thấy gì cả đâu. Nếu thấy, họ đã quắp thầy bay ra, bay vào mà chẳng mất su sứt nào cho hãng hàng không trong cuộc chơi hí họa chốn thị thành vừa qua đâu…

“Tâm chủ thần minh, tâm tàng thần” – tâm điều khiển sự sáng suốt minh mẫn, hành vi của bản thân mỗi người. Tâm có mạnh khỏe thì mới cho chúng ta một tinh thần mạnh mẽ, bình yên trong tâm trí, một động lực sức mạnh, trí tuệ sáng suốt để làm việc và học tập.

Thiển cận nghĩ vậy. Thế nên, dám mong thầy hãy: Tĩnh Tâm Dưỡng Đạo mà nên tiên cõi trần!

Nếu ai có dịp về xứ biển Quy Nhơn, đặt chân lên nước non Ghềnh Ráng thơ mộng, đến viếng mộ chàng thi sĩ tài hoa Hàn Mặc Tử, chắc chắn sẽ gặp nghệ sĩ Dzũ Kha đứng trong vòng vây của du khách say sưa ngâm thơ Hàn, bùi ngùi kể về cuộc đời chàng thi sĩ tài hoa bạc mệnh họ Hàn và hứng khởi nói về sự nghiệp văn chương của Hàn. Đặc biệt hơn, khách tham quan còn được chứng kiến Dzũ Kha dùng cây bút lửa đốt những mảnh gỗ thông hay những mẩu giấy tạo thành tranh, thành chữ.

Sử dụng cây bút cứng ngắc bằng sợi dây kim loại được nung đỏ từ dòng điện 6 volt với cường độ 5 ampere, Dzũ Kha thường vẽ những danh lam, thắng cảnh của Bình Định như tháp Dương Long, tháp Đôi và đặc biệt là thắng cảnh Ghềnh Ráng thân thuộc. Còn những câu thơ tuyệt hay của thi sĩ họ Hàn mà Dzũ Kha say mê thì anh thể hiện bằng nghệ thuật thư pháp. Anh vẫn thường nói vui: Người ta bút mực bút chì, Dzũ Kha bút lửa khắc ghi thơ Hàn.

Vài nét về Dzũ Kha
Tên thật: Trương Vũ Kha
Sinh năm: 1960
Quê quán: Cát Lâm – Phù Cát – Bình Định
Tốt nghiệp Trường Đại học Mỹ thuật TP.HCM

Yêu thơ Hàn Mặc Tử và xem nhà thơ như người tri kỷ, Dzũ Kha không chỉ là người tình nguyện giữ mộ Hàn Mặc Tử trong suốt mấy chục năm mà anh còn thể hiện tình cảm ấy bằng những tháng ngày cặm cụi đi khắp nơi tìm kiếm tư liệu về Hàn Mặc Tử. Anh đã tìm gặp và lắng nghe tâm sự của những người phụ nữ có mặt trong cuộc đời Hàn để hiểu thêm nhiều điều thầm kín mà nhà thơ chưa kịp giãi bày và để hiệu đính lại những điểm chưa chính xác về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Hàn Mặc Tử. Hôm tôi đến, Dzũ Kha khoe bức hình vừa chụp bà Mộng Cầm cách đây một tuần khi bà đến thăm mộ Hàn Mặc Tử. Đóng góp lớn nhất của anh đối với văn học là phần hiệu đính tên bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” thành “ở đây thôn Vỹ Dạ” với chính bút tích của Hàn Mặc Tử và hình ảnh về nơi ngày xưa nhà thơ đã ngồi sáng tác tác phẩm này.

Giờ đây, hình ảnh Dzũ Kha với mái tóc bồng bềnh, đôi mắt buồn mênh mang, giọng nói hào sảng của người dân xứ biển đã trở nên khá thân thuộc với độc giả. Căn lều của anh cũng từng được đón tiếp những vị lãnh đạo cấp cao của nhà nước. Mọi người không chỉ quý anh ở nét tài hoa hiếm có mà còn cảm phục anh bởi tấm lòng giữa người với người và với đời. Anh không màng đến danh lợi cuộc đời mà tự nguyện làm một nghệ sĩ nghèo để ngày ngày cặm cụi bên giá vẽ, để được sống trong thiên nhiên đất trời, để được thăng hoa cùng thơ Hàn, để tiếp lửa và giữ cho thơ Hàn ấm mãi. Ra về, tôi vẫn nhớ mãi câu nói của thi sĩ Hàn Mặc Tử mà Dzũ Kha rất tâm đắc: “Cái đời tôi, tôi còn chưa xem ra gì nữa là danh vọng”.

Khu du lịch Ghềnh Ráng Quy Nhơn không chỉ mang vẻ đẹp tự nhiên mà còn chan chứa những câu chuyện xúc động về số phận một người thi nhân trẻ tuổi qua đời khi mới 28. Hãy đến đây để có được những trải nghiệm tuyệt vời không bao giờ quên!